Từ cuối thế kỷ XX, sự ra đời của phác đồ đa hóa trị (MDT) đã giúp giảm mạnh số ca bệnh phong trên toàn cầu, đưa căn bệnh từng bị xem là nan y trở thành bệnh có thể chữa khỏi. Trong bối cảnh mục tiêu loại trừ bệnh phong vẫn đang được đẩy mạnh, nghiên cứu về vi khuẩn Mycobacterium leprae, đặc điểm sinh học và khả năng lây truyền của nó tiếp tục giữ vai trò quan trọng, giúp nâng cao chiến lược kiểm soát và giảm nguy cơ tàn tật lâu dài cho người bệnh. Hãy cùng Trung tâm Tiêm chủng Long Châu tìm hiểu chi tiết thông qua bài viết này nhé!
Vi khuẩn Mycobacterium leprae là gì?
Mycobacterium leprae là tác nhân gây ra bệnh phong (bệnh Hansen) - một bệnh truyền nhiễm mạn tính ảnh hưởng chủ yếu đến da, dây thần kinh ngoại biên, mắt và niêm mạc đường hô hấp. Đây là loại vi khuẩn được nhà khoa học người Na Uy - Gerhard Armauer Hansen phát hiện năm 1873, trở thành vi khuẩn gây bệnh đầu tiên được xác định ở người.
Mycobacterium leprae thuộc họ Mycobacteriaceae, có dạng trực khuẩn mảnh, hơi cong, dài từ 1 - 8 μm và rộng 0,2 - 0,5 μm. Dưới kính hiển vi, vi khuẩn thường xuất hiện thành từng cụm hoặc bó như những que nhỏ. Đây là vi khuẩn kháng cồn - kháng toan (AFB), nhờ lớp vỏ lipid dày giúp giữ màu khi nhuộm bằng phương pháp Ziehl - Neelsen.
Vi khuẩn không tạo bào tử, sống yếu ngoài cơ thể và có thể tồn tại trong môi trường từ 1 đến 2 ngày. Vì cấu trúc và điều kiện sinh học đặc biệt, Mycobacterium leprae không thể nuôi cấy nhân tạo trên môi trường thạch thông thường, khiến việc nghiên cứu và chẩn đoán trở nên phức tạp hơn so với nhiều tác nhân gây bệnh khác.

Đặc điểm sinh học và cơ chế ký sinh của vi khuẩn
Mycobacterium leprae là vi khuẩn nội bào bắt buộc, có khả năng thích nghi cao trong môi trường ký sinh. Bộ gen của vi khuẩn này đã trải qua quá trình tiến hóa thu gọn mạnh, với kích thước chỉ khoảng 3,3 Mbp - nhỏ nhất trong nhóm Mycobacteria. Gần một nửa số gen là gen giả không còn chức năng, được cho là nguyên nhân khiến vi khuẩn không thể nhân lên khi nuôi cấy trong phòng thí nghiệm và dẫn đến thời gian phân chia rất chậm, khoảng 12 - 14 ngày cho một thế hệ.
Mycobacterium leprae ưa nhiệt độ thấp, vì vậy chúng thường ký sinh ở các vùng da mát như mặt, tai, bàn tay và bàn chân. Vi khuẩn mất khả năng sống sót nhanh chóng khi nhiệt độ vượt quá 35°C. Trong cơ thể người, chúng chủ yếu xâm nhập đại thực bào da và tế bào Schwann của dây thần kinh ngoại biên, gây viêm, mất dẫn truyền thần kinh và dần dẫn đến tê bì, mất cảm giác và teo cơ.
Mycobacterium leprae rất khó gây nhiễm thực nghiệm trên động vật. Dù có thể nhân lên hạn chế khi tiêm vào gan bàn chân sau của chuột, nhiễm khuẩn không gây tổn thương thần kinh ở loài này. Tatu chín đai (Dasypus novemcinctus) là loài động vật duy nhất ngoài con người biểu hiện bệnh phong với tổn thương thần kinh rõ rệt và là vật chủ tự nhiên của vi khuẩn này.

Con đường lây truyền của Mycobacterium leprae
Mycobacterium leprae lây truyền chủ yếu qua đường hô hấp. Người mắc bệnh phong khi ho hoặc hắt hơi có thể phát tán giọt bắn chứa vi khuẩn, xâm nhập vào người khỏe mạnh qua niêm mạc mũi. Tuy nhiên, khả năng lây nhiễm của bệnh phong tương đối thấp và cần phơi nhiễm lâu dài, tiếp xúc gần gũi với bệnh nhân chưa điều trị bằng phác đồ đặc hiệu.
Các yếu tố nguy cơ gây bệnh phong bao gồm:
- Người suy giảm miễn dịch;
- Sống chung hoặc chăm sóc người bệnh phong trong thời gian dài;
- Trẻ em sống trong môi trường đông đúc và điều kiện vệ sinh kém.
Mặc dù là bệnh truyền nhiễm, hơn 95% dân số có khả năng đề kháng tự nhiên với Mycobacterium leprae, do đó bệnh không dễ dàng lây lan trong cộng đồng. Ngày nay, nhờ kiểm soát dịch tễ học và các phác đồ điều trị chuẩn, mức độ lây truyền bệnh phong đã giảm đáng kể trên toàn thế giới.

Ảnh hưởng của vi khuẩn Mycobacterium leprae đến cơ thể
Sau khi xâm nhập, Mycobacterium leprae gây nhiễm trùng mạn tính và ảnh hưởng trực tiếp đến da, dây thần kinh ngoại biên, mắt và niêm mạc đường hô hấp. Các biểu hiện lâm sàng tiến triển chậm và có thể kéo dài nhiều năm:
- Ảnh hưởng đến da: Xuất hiện các mảng da nhạt màu hoặc đỏ sẫm; vùng da tổn thương mất cảm giác nóng, lạnh, đau; da khô, bong vảy, có thể mất lông.
- Ảnh hưởng đến thần kinh: Viêm dây thần kinh ngoại biên gây tê bì và mất cảm giác, teo cơ, biến dạng bàn tay và bàn chân, trường hợp nặng có thể gây tàn tật vĩnh viễn.
- Ảnh hưởng đến mắt, niêm mạc: Viêm kết mạc mắt, loét giác mạc, nguy cơ mù mắt. Tổn thương niêm mạc mũi gây nghẹt mũi, chảy máu hoặc biến dạng mũi yên.
- Triệu chứng toàn thân: Sốt nhẹ kéo dài, mệt mỏi, sưng hạch, loét da và nhiễm trùng thứ phát nếu không điều trị kịp thời.
Chính những biến chứng nặng nề này đã khiến bệnh phong từng trở thành nỗi ám ảnh trong lịch sử, đồng thời gây kỳ thị xã hội kéo dài đối với người bệnh.

Vi khuẩn Mycobacterium leprae gây bệnh phong với đặc điểm phát triển chậm và tấn công chủ yếu vào da và dây thần kinh ngoại biên. Bệnh hoàn toàn có thể điều trị khỏi nếu được phát hiện sớm và điều trị đúng phác đồ. Vì vậy, nâng cao nhận thức, tránh kỳ thị và chủ động thăm khám khi có dấu hiệu nghi ngờ là yếu tố then chốt để bảo vệ sức khỏe cá nhân và cộng đồng. Mỗi người cần trang bị kiến thức y khoa đúng đắn, tránh lan truyền thông tin sai lệch về bệnh phong, đồng thời hỗ trợ người bệnh trong quá trình điều trị và hòa nhập. Chủ động phòng ngừa và theo dõi sức khỏe góp phần hướng tới một cộng đồng khỏe mạnh và nhân văn hơn.
:format(webp)/470051785_8767135473405056_691967411107495592_n_6b2bbff755.png)
:format(webp)/467434554_545745841560409_1066418224364723785_n_560a494f9c.png)
/cap_nhat_tinh_hinh_lay_nhiem_hiv_o_nghe_an1_3a4ccccd14.jpg)
/doi_tuong_de_mac_cum_nhom_nguy_co_cao_va_cach_bao_ve_hieu_qua_2474ff76f3.jpg)
/cum_a_h7n9_co_lay_sang_nguoi_khong_thong_tin_can_biet_de_phong_ngua_hieu_qua_756a153458.jpg)
/6_abedefde3b.png)
/zona_co_lay_qua_nuoc_bot_khong_su_that_ve_duong_lay_va_cach_phong_tranh_1_0dce6722ce.png)