Bệnh bại liệt từng gây dịch nghiêm trọng trên toàn cầu, khiến hàng triệu người tử vong hoặc chịu di chứng tàn tật. Tuy nhiên, từ năm 1955, vắc xin bất hoạt bại liệt (IPV) được phát triển bởi Jonas Salk đã giúp giảm đáng kể tỷ lệ mắc bệnh tại các nước phát triển. Đến năm 1961, vắc xin sống giảm độc lực (OPV) do Albert Sabin phát minh đã góp phần quan trọng trong việc kiểm soát dịch bệnh tại nhiều quốc gia.
Hiện nay, nhờ chương trình tiêm chủng mở rộng và sự phối hợp quốc tế, tỷ lệ mắc bệnh bại liệt đã giảm mạnh, đặc biệt là ở các khu vực phát triển. Tuy nhiên, bệnh vẫn còn nguy cơ bùng phát tại các vùng có tỷ lệ tiêm chủng thấp.
Nguyên nhân gây bệnh bại liệt là do đâu?
Bại liệt (Polio) là một bệnh lý truyền nhiễm cấp tính do vi rút Poliovirus gây ra. Đây là một trong những vi rút thuộc họ Picornaviridae, chi Enterovirus, và có khả năng lây lan nhanh qua đường tiêu hóa. Bệnh có thể gây ra hội chứng liệt mềm cấp, làm suy giảm chức năng vận động của cơ thể.
/bai_liet_la_benh_gi_cach_phong_ngua_bai_liet_2_4eb286165d.jpg)
Nguyên nhân gây bệnh bại liệt:
Vi rút Polio là nguyên nhân chính gây bệnh bại liệt. Vi rút này có dạng hình khối cầu, không có vỏ bao bọc và mang vật liệu di truyền là RNA. Poliovirus tồn tại ở 3 tuýp:
- Tuýp I: Gây bệnh nhiều nhất (chiếm 90%), thường liên quan đến các đợt dịch.
- Tuýp II: Từng gây bệnh nhưng đã được loại trừ nhờ chương trình tiêm chủng toàn cầu.
- Tuýp III: Hiếm gặp hơn nhưng vẫn có khả năng gây bệnh.
Vi rút bại liệt thường sống rất lâu ở môi trường bên ngoài. Thậm chí trong phân, vi rút này có thể sống được nhiều tháng ở nhiệt độ từ 0 - 4 độ C. Trong nước ở nhiệt độ thường, chung sống được khoảng 2 tuần. Để tiêu diệt vi rút bại liệt, nhiệt độ cần ở mức 56 độ C sau 30 phút hoặc sử dụng thuốc tím để diệt chúng. Thông thường, liều clo ở trong nước sinh hoạt sẽ không thể tiêu diệt được vi rút bại liệt.
Vi rút bại liệt xâm nhập vào cơ thể theo đường tiêu hóa, tiếp đó, chúng sẽ đi đến các hạch bạch huyết. Tại đây, một số vi rút Polio sẽ xâm nhập vào hệ thống thần kinh trung ương làm tổn thương tới các tế bào sừng trước tủy sống và tế bào thần kinh vận động ở vỏ não. Từ đó gây nên hội chứng liệt mềm trên lâm sàng.
Triệu chứng khi mắc bại liệt
Tùy vào thể bệnh bại liệt mà triệu chứng bệnh có thể xuất hiện khác nhau ở mỗi người. Trong thể bại liệt không điển hình không gây tổn thương đến hệ thần kinh trung ương, bệnh có thể chỉ có một số triệu chứng nhẹ nhàng. Khoảng 70-90% trường hợp nhiễm vi rút bại liệt không có triệu chứng, nhưng vẫn có khả năng lây lan bệnh trong cộng đồng.
Bệnh bại liệt có thể chia thành 3 thể:
Bại liệt thể nhẹ
Đối với thể này, bệnh nhân thường sẽ gặp các triệu chứng như những bệnh nhiễm trùng do vi rút khác gây ra, gồm có sốt cao, đau đầu, rát cổ họng, buồn nôn và nôn, mất ngủ, táo bón hoặc tiêu chảy. Ở thể nhẹ, bệnh có thể hồi phục trong vài ngày.
/bai_liet_la_benh_gi_cach_phong_ngua_bai_liet_1_38309e0c0f.jpg)
Bại liệt thể không liệt
Thể này còn gọi là thể viêm màng não vô khuẩn. Triệu chứng thường thấy nhất là cứng cổ, đau đầu, thay đổi chức năng tâm thần.
Bại liệt thể liệt
Triệu chứng phổ biến của thể này là sốt và đau đầu, cứng cổ và lưng, táo bón, nhạy cảm khi bị chạm vào người. Bệnh nhân sẽ dần dần mất đi cảm giác và sự vận động ở phần dưới cơ thể, qua đó dẫn tới tình trạng liệt không đối xứng. Tiếp đến, người bệnh sẽ phục hồi dần trong khoảng từ 2 - 6 tháng. Ở những trường hợp nặng hơn như liệt cả tủy sống và hành tủy thì bệnh nhân có thể bị suy hô hấp, tử vong.
Đường lây truyền của bệnh bại liệt
Bại liệt là một bệnh truyền nhiễm, con đường lây truyền của bệnh là lây nhiễm từ người sang người. Khi người nhiễm bệnh đào thải vi rút bại liệt ra ngoài theo phân sẽ làm ô nhiễm nguồn nước, thực phẩm. Từ đó vi rút tiếp tục xâm nhập vào cơ thể người khác theo đường tiêu hóa. Số ít trường hợp có khả năng lây truyền qua đường hầu họng.
Ngoài ra, bệnh cũng có thể lây lan qua việc tiếp xúc trực tiếp với người nhiễm vi rút hoặc người vừa sử dụng vắc xin bại liệt đường uống, bởi đây là loại vắc xin sống giảm độc lực được sản xuất từ vi rút sống. Vắc xin bại liệt đường uống (OPV) chứa vi rút sống giảm độc lực. Sau khi uống, vi rút này có thể được đào thải qua phân của người tiêm chủng. Trong môi trường vệ sinh kém, người tiếp xúc với phân chứa vi rút này có nguy cơ nhiễm bệnh, đặc biệt là ở những người có hệ miễn dịch suy yếu. Trước khi xuất hiện các triệu chứng lâm sàng của bệnh thì có thể người bệnh đã bị lây truyền vi rút được từ 7 - 10 ngày.
Các đối tượng có nguy cơ cao mắc bệnh bại liệt
Bại liệt là bệnh lây truyền qua đường tiêu hóa hoặc tiếp xúc trực tiếp, nên các nhóm đối tượng sau đây có nguy cơ cao mắc bệnh:
Người sống hoặc đi đến khu vực có dịch bại liệt.
Người tiếp xúc với nguồn lây nhiễm, bao gồm:
- Người tiếp xúc với phân hoặc dịch tiết của người đang mang vi rút bại liệt và nhân viên y tế hoặc người chăm sóc bệnh nhân bại liệt không thực hiện các biện pháp bảo hộ đúng cách.
- Người sử dụng nguồn nước hoặc thực phẩm bị ô nhiễm.
Người có hệ miễn dịch suy yếu: Đang mắc bệnh suy giảm miễn dịch, đã bị cắt amidan trước đó, stress, hoạt động cường độ nặng trong thời gian dài,...
/bai_liet_la_benh_gi_cach_phong_ngua_bai_liet_3_4c0fbb68b9.jpg)
Cách phòng ngừa bệnh bại liệt
Hiện nay, cách phòng ngừa bệnh bại liệt an toàn và hiệu quả nhất đó chính là tiêm vắc xin bại liệt. Vắc xin bại liệt sẽ bao gồm có:
- Vắc xin bại liệt đường uống OPV: Chứa vi rút bại liệt sống đã làm suy yếu, vắc xin này có tác dụng kích thích cơ thể tạo miễn dịch để giúp cơ thể phòng vệ, từ đó không có vi rút bại liệt xâm nhập vào cơ thể.
- Vắc xin bại liệt đường tiêm IPV: Vắc xin bất hoạt dạng tiêm IPV chứa vi rút bại liệt được làm chết (sau khi đã xử lý bất hoạt), nó sẽ có tác dụng giúp kích thích cơ thể tạo miễn dịch phòng bệnh.
- Vắc xin phòng bại liệt phối hợp: Là loại vắc xin phối hợp có thành phần ngừa bại liệt.
/bai_liet_la_benh_gi_cach_phong_ngua_bai_liet_5_5c8aa78d70.jpg)
Trong đó, vắc xin phòng bại liệt phối hợp đang được rất nhiều người lựa chọn bởi có thể phòng ngừa nhiều loại bệnh chỉ với một loại vắc xin. Tại Trung tâm Tiêm chủng Long Châu đang lưu hành, sử dụng 3 loại vắc xin phối hợp phòng ngừa bại liệt và các bệnh lây nhiễm khác thế hệ mới đó là:
- Tetraxim (4 trong 1): Vắc xin Tetraxim 4 trong 1 có thể phòng ngừa 4 loại bệnh bao gồm bại liệt, bạch hầu, ho gà, uốn ván. Vắc xin được chỉ định cho trẻ từ 2 tháng tuổi đến trẻ 13 tuổi.
- Hexaxim (6 trong 1): Vắc xin Hexaxim 6 trong 1 cũng giúp phòng ngừa 6 bệnh gồm: Bại liệt, bạch hầu, uốn ván, ho gà, viêm gan B, Hib. Vắc xin này được chỉ định cho trẻ từ 6 tuần tuổi đến 24 tháng tuổi.
- Infanrix Hexa (6 trong 1): Vắc xin Infanrix Hexa 6 trong 1 giúp phòng ngừa 6 bệnh gồm có: Bại liệt, ho gà, uốn ván, viêm gan B, Hib. Vắc xin Infanrix Hexa được chỉ định cho trẻ từ 6 tuần tuổi đến 24 tháng tuổi.
/bai_liet_la_benh_gi_cach_phong_ngua_bai_liet_4_f8971dd3a1.jpg)
Tất cả vắc xin phối hợp phòng ngừa bệnh bại liệt và những căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm khác đều đang có mặt tại Trung tâm Tiêm chủng Long Châu. Không chỉ sở hữu vắc xin đa dạng, chất lượng, Trung tâm Tiêm chủng Long Châu còn tự hào là địa chỉ tiêm chủng có đội ngũ bác sĩ, nhân viên Y tế chuyên môn cao, trang thiết bị hiện đại. Hơn hết, chúng tôi luôn đặt trọn tâm huyết để mang tới sự hài lòng trong từng dịch vụ cho khách hàng.